Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ nhiều nước công nghiệp. Theo Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Thế giới (IARC) vào năm 1998 thì ung thư vú đứng đầu, chiếm 21% trong tổng số các loại ung thư được điều trị ở phụ nữ trên toàn thế giới.
Cũng theo IARC, xuất độ chuẩn hóa theo tuổi của ung thư vú ở phụ nữ là 92,04 (trên 100 000 dân) ở châu Âu và 67,48 (trên 100 000 dân) trên toàn thế giới vào năm 1998, đều là cao nhất trong các loại ung thư ở nữ giới.
Ung thư tại chỗ
- Carcinoma ống tại chỗ: Điều trị chủ yếu là đoạn nhũ có tỷ lệ khỏi bệnh là 98-99% với 1-2% trường hợp tái phát. Điều trị bảo tồn vú đang là hướng đi mới, chỉ mổ lấy bướu cùng với xạ trị hỗ trợ cũng khá hiệu quả, với tỷ lệ tái phát là 7-13%.
- Carcinoma tiểu thuỳ tại chỗ: bệnh nhân thường được theo dõi sát có thể kết hợp với hóa trị phòng ngừa (như dùng tamoxifen) và làm giảm các yếu tố nguy cơ. Phẫu thuật chỉ áp dụng cho một số ít bệnh nhân.
Ung thư giai đoạn sớm – I, II, IIIA
Phẫu thuật
Là điều trị chủ yếu. Những phẫu thuật trước đây như đoạn nhũ tận gốc (Phẫu thuật Halsted) ngày nay ít được dùng vì mức tàn phá rộng, để lại nhiều dư chứng nặng nề cho bệnh nhân. Các loại phẫu thuật ít tàn phá hơn, bảo tồn các cơ ngực lớn, bé càng ngày càng cho thấy hiệu quả trong việc điều trị tại chỗ căn bệnh.
Phẫu thuật bảo tồn vú: chỉ lấy khối bướu và mô bình thường cách rìa bướu 1-2 cm gần đây được ưa thích và áp dụng nhiều. Nhiều thử nghiệm lâm sàng cho thấy phẫu thuật bảo tồn kèm theo xạ trị cho kết quả ngang bằng với phẫu thuật đoạn nhũ riêng lẻ.
Tuy nhiên, có một số chống chỉ định của phương pháp điều trị này:
- Có hai hoặc nhiều khối bướu nằm ở các góc phần tư khác nhau của vú
- Bướu lan tỏa, giới hạn không rõ
- Bướu to nằm trong tuyến vú nhỏ
- Bướu nằm ở vị trí trung tâm của vú
Nạo hạch cũng là một phần của phẫu thuật. Nhất là nạo hạch lympho vùng nách rất cần cho đánh giá tiên lượng.
Tham khảo tài liệu về bệnh ung thư vú
Xạ trị hỗ trợ
- Xạ trị là một phần của phương pháp điều trị bảo tồn: tiến hành sau phẫu thuật cắt bướu. Xạ trị giúp giảm nguy cơ tái phát.
- Xạ trị sau đoạn nhũ: giảm nguy cơ tái phát cho những bệnh nhân nguy cơ cao như bệnh nhân có nhiều hạch vùng, bệnh nhân có bướu nguyên phát to,…
Liệu pháp toàn thân
Nguy cơ di căn vi thể ở những ung thư giai đoạn sớm là có. Vì vậy, hóa trị là một biện pháp điều trị toàn thân có thể diệt các tế bào ác tính lan tràn.
Liệu pháp nội tiết
+ Cắt buồng trứng
+ Tamoxifen: là các chất ức chế thụ thể estrogen chọn lọc. Dùng cho các bệnh nhân có thụ thể với estrogen dương tính. Có tác dụng giảm nguy cơ tái phát và giảm xuất độ ung thư vú đối bên khoảng 50%.
Hóa trị hỗ trợ
- Kết hợp cả hóa trị và liệu pháp nội tiết
Điều trị hổ trợ đối với ung thư vú có hạch dương tính (di căn hạch)
Tiền mãn kinh, Thụ thể Estrogen(ER) + hoặc thụ thể Progesteron (PR) + :
Hóa trị + Tamoxifen
Cắt bỏ buồng trứng ( hoặc chất tương đồng GnRH) +/- Tamoxifen
Hóa chất +/- Cắt bỏ buồng trứng ( hoặc chất tương đồng GnRH) +/- Tamoxifen
Trước mãn kinh, ER – và PR – : Hóa trị
Sau mãn kinh, ER-,PR+: Hóa trị, Tamoxifen
Sau mãn kinh, ER – và PR – : Hóa trị
Người già: dùng Tamoxifen, nếu không có ER và PR thì dùng hóa trị
(ER: Thụ thể Estrogen, PR: Thụ thể Progesterone, GnRH (Gonadotropin releasing hormone): Nội tiết kích thích tiết kích dục tố )
Ung thư di căn
Mục đích chủ yếu là cải thiện chất lượng đời sống và kéo dài cuộc sống.
Phẫu thuật
Có chỉ định cho một số bệnh nhân. Như bệnh nhân cần đoạn nhũ khi các tổn thương sùi, loét gây đau nhức, bệnh nhân có các di căn não, phổi đơn độc, tràn dịch màng ngoài tim, màng phổi,…
Xạ trị
Vai trò chủ yếu trong điều trị tạm bợ và nâng đỡ, ví dụ như chỉ định cho các di căn xương đau nhiều, di căn hệ thần kinh trung ương không cắt bỏ được…
Liệu pháp toàn thân
Việc lựa chọn thuốc để điều trị phải cân nhắc nhiều yếu tố của bệnh nhân. Các yếu tố đó là: tuổi, bệnh nhân đã mãn kinh hay chưa, bệnh nhân có thụ thể với estrogen dương tính hay không, số lượng hạch di căn…. 3
Liệu pháp toàn thân bao gồm:
- Liệu pháp nội tiết: thường dùng cho phụ nữ mãn kinh, có thụ thể estrogen dương tính.
Các loại thuốc thường áp dụng: kháng estrogen (Tamoxifen), ức chế enzyme aromatase (Anastrozole, letrozole…), dùng các thuốc tương tự GnRH, các progestin.
- Hoá trị: thường dùng cho những bệnh nhân nào mà căn bệnh vẫn tiếp tục tiến triển dù đã điều trị nội tiết, hoặc bệnh nhân có thụ thể nội tiết âm tính. Có nhiều phác đồ thường dùng như: CA, CAF, CMF…
- Trastuzumab: Là kháng thể đơn dòng kháng lại thụ thể tăng trưởng biểu bì – HER2/neu
- Cắt buồng trứng
Tiên lượng
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng của bệnh. Quan trọng nhất là giai đoạn của bệnh, càng phát hiện ở giai đoạn sớm thì tiên lượng càng tốt. Hạch di căn cũng đóng vai trò đáng kể.
Đặc tính mô học của bướu cũng được quan tâm. Tiên lượng tốt hơn với các ung thư trong nang, ung thư ống dẫn, ung thư dạng tủy, bệnh Paget không bướu.
Gần đây, người ta đề cập đến yếu tố thụ thể nội tiết của bướu. Thông thường, bướu có thụ thể nội tiết dương tính hay đáp ứng tốt với điều trị và cho tiên lượng tốt hơn. Ngoài ra, ở những tuyến vú có thụ thể tăng trưởng biểu bì HER2/neu dương tính, thì bệnh thường tiến triển nhanh và cho tiên lượng xấu.
Phòng ngừa
Ung thư vú rất đáng quan tâm vì đó là một trong những loại ung thư hàng đầu ở phụ nữ. Nhiều biện pháp đã được đề xuất để làm giảm nguy cơ mắc bệnh, một số biện pháp dưới đây rất đáng chú ý:
- Dùng tamoxifen cho các carcinom tiểu thùy tại chỗ
- Chế độ ăn ít béo
- Giảm uống rượu
- Tránh tiếp xúc với Clo hữu cơ, chất phóng xạ
- Nên cho bú sữa mẹ